Thiền Sư
MINH CHÁNH
Thiền
sư Thanh Đàm hiệu Minh Chánh là Trụ
tŕ chùa Bích Động ở làng Đam Khê,
phủ An Khánh, tỉnh Ninh B́nh. Người khai sơn chùa Bích Động
là hai vị
sư Trí Kiên và Trí
Thể đến đây năm 1700. Thiền sư Minh Chánh
là vị Trụ tŕ sau
này. Sư là đệ tử Thiền sư Đạo Nguyên lúc bấy
giờ đang trụ tŕ thiền
viện Nguyệt Quang, một tổ đ́nh của môn phái
Chân Nguyên. Sư xuất gia
năm 1807, thọ giới cụ túc năm 1810. Khoảng này có lẽ
Sư hai mươi hoặc trên hai mươi
tuổi.
Sau
khi xuất gia, một hôm Sư hỏi
Thiền sư Đạo Nguyên:
- Tâm
không phải ở trong thân, cũng
không phải ở ngoài thân, cũng
không phải ở chặng giữa, vậy rốt cuộc tâm ở chỗ nào?
Đạo
Nguyên cười xoa đầu Sư và nói
bài kệ:
Theo
thời ứng dụng,
Gặp
vật thấy cơ,
Tánh
vốn như như,
Nào
ngại trong ngoài.
(Tùy thời ứng dụng,
Ngộ
vật kiến cơ,
Tánh
bản như như,
Hà
quan nội ngoại.)
Ngày
thọ giới cụ túc, Sư
cũng được
Đạo Nguyên cho một bài
kệ:
Quang
phóng giữa mày không phải
Phật,
Dưới
chân mây trắng chẳng là Tiên.
Bảo
ông nuôi dưỡng trâu cường tráng,
Hôm
sớm cày sâu mảnh ruộng nhà.
(Quang phóng mi gian vô đạo
Phật,
Vân
sinh túc hạ vị ngôn tiên.
Nhiêu
quân bảo dưỡng ngưu nhi tráng,
Triêu
tịch thục canh bỉ thốn
điền.)
Đến
năm 1819, Sư sáng tác sách
Pháp Hoa Đề Cương tại viện Liêm Khê. Trong đây, Sư có đặt ra một số
câu hỏi để giải thích về Diệu tâm như:
Hỏi: Tại sao không chỉ
thẳng cái thứ nhất là Diệu Tâm
xưa nay, mà lại chỉ cái thứ hai
là căn tánh để làm phương tiện tu hành?
Đáp: Tâm vốn vô
h́nh, làm sao mà chỉ?
Trước kia tôi đă
nói một lần rồi, ngôn thuyết và biểu thị,
không nắm được tâm. Tuy vậy, dù tâm vô
h́nh, nhưng sự ứng dụng của tâm lại có
vết tích, v́ có vết
tích nên có thể chỉ
bày khiến cho người tu học có
thể nh́n vết tích của sự ứng dụng, do ánh sáng ấy
mà về được tâm.
Hỏi: Dấu vết ấy ở đâu?
Đáp: Ở trên đối tượng lục trần. Do sắc mà có cái
thấy, do thanh mà có cái
nghe, lục trần là dấu
vết ứng dụng của lục căn. Nay muốn nắm được dấu vết của căn th́ phải
quan sát cái thấy cái nghe nơi
đối tượng
sắc thanh. Nên biết rằng công dụng của căn là công
dụng của tâm, căn nhận
biết là tâm nhận biết; cái khác nhau là
căn có tới sáu công
dụng, mà tâm chỉ có
một bản thể tinh minh. Chư Phật truyền nhau là căn pháp
này, các vị Tổ truyền nhau là tâm tông
ấy. Đó là bí quyết
mà các kinh
điển chỉ bày để được căn bản trí. Pháp ấn truyền trao qua lại các thời đại cũng lấy cái ấy
để phát giác sơ tâm.
Chứng ngộ mau hay chậm là v́ căn
cơ rộng hay hẹp...
Hỏi: Tâm ấn làm
sao mà truyền?
Đáp: Đức Thế Tôn đưa lên một cành
hoa, Ca-diếp mỉm cười, sau đó các
Tổ truyền lại, ǵn giữ, trường hợp khác nhau, chỉ có người giác ngộ mới tự biết.
Hỏi: Tu làm sao?
Đáp: Thôi! Thôi! Đó
là phương pháp, Thiền sư Đạo Xuyên nói:
Tri
âm, tự khắc tùng theo gió,
Trăng
trong gió mát đất trời nhàn.
Lại
nói:
Nắm
được ở tâm,
Ứng
được nơi
tay
Tuyết
gió hoa trăng
Trời
đất lâu dài.
Cứ
hễ canh năm gà gáy
sáng,
Xuân
về hoa núi nở ngàn
nơi.
Hỏi: Mục đích tối hậu là ǵ?
Đáp: Ḥa thượng Phổ Hóa nói:
“T́m chỗ đi tới không được...” Thôi xin chào,
xin chào! Có bài kệ
về pháp như sau:
Vạn
pháp tuy nhiều không đếm xiết
Chung
qui cũng chỉ thức căn trần.
Huyễn
duyên dư ảnh dù không
thực
Chân
tri chánh kiến vẫn bao dung.
Gặp
thầy chỉ dạy đường mê ngộ
Thấy
Phật t́m ra lẽ sắc
không
Nếu
muốn lên mau bờ bến
giác,
Con
đường trước
mặt chớ lần khân.
Năm
1843, Sư sáng tác sách Tâm
Kinh Trực Giải. Sư có niêm
tụng đề tài Thuần Đà như sau:
Niệm:
Hay
lắm, Thuần Đà !
Hay
lắm, Thuần Đà !
Tụng:
Không
nói ngắn chẳng nói dài,
Ngắn
dài, tốt xấu thảy đều sai.
T́m
hay, lại hóa người chê vụng,
Bắn
sẻ ai dè sói chực
ngay.
Công
danh cái thế màn sương
sớm,
Phú
quí kinh nhân giấc mộng dài.
Chẳng
hiểu bản lai vô nhất
vật,
Công
lao uổng
phí một đời ai.
Bài
thơ ngộ nghĩnh nhất của Sư là bài thơ
T́m Tâm, có âm hưởng
tiếng trống đánh:
Ngang
lưng đeo trống đối tri âm,
Duỗi
thẳng hai tay, đánh
trống tâm.
Tập
tập t́m tâm, tâm tất
tập,
T́m
tâm, tâm tập, tập t́m tâm.
*
Âm
thanh hợp vận, âm trùng
họa,
Tịch
chiếu tâm tông, tức tập tâm.
Trăng
sáng, gió thanh thường tự tại,
T́m
tâm chẳng được, nghỉ t́m tâm.
*
Thôi
nhé, tâm ta chẳng thể tầm,
T́m
tâm dẫu được, chẳng
chân tâm.
Mang
đèn xin lửa thêm điên đảo,
Thà
đứng bên song hát khúc ngâm.
(
Kiên ḱnh
yêu cổ đối tri âm,
Thư
thủ vô vi phách cổ
tâm.
Tập
tập tầm tâm tâm tắc
tập,
Tầm
tâm tâm tập,
tập tầm tâm.
*
Cổ
thanh hợp vận tùng thanh họa,
Tịch
chiếu tâm tông tức tập tầm.
Minh
nguyệt thanh phong trường tự tại,
Tầm
tâm bất đắc, tức tầm tâm.
*
Chỉ
chỉ
! ngộ tâm bất khả
tầm,
Tầm
tâm túng đắc tắc phi tâm.
Tương
đăng cầu hỏa tư điên đảo,
Bất
nhược song tiền
thủ nhất ngâm.)
Sư
cũng thuộc về phái Trúc
Lâm. Không biết
Sư tịch ở đâu và vào
lúc nào.